• Những trung tâm dạy vẽ tốt nhất cho trẻ nhỏ

  • Những loại thực phẩm nên bổ sung thường xuyên cho dân văn phòng

  • Có nên cho trẻ nhỏ sử dụng màu nước để vẽ hay không

Thứ Tư, 22 tháng 2, 2017

Hướng dẫn bổ sung Omega 3 từ cá biển đúng cách

Cá biển luôn là một trong những loại thực phẩm chứa nhiều chất dinh dưỡng rất tốt chô sự phát triển ở trẻ nhỏ cũng như người trưởng thành, giúp bổ sung những vitamin cũng như những khoáng chất cần thiết để cơ thể có đủ nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho một ngày làm việc và học tập. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý khi bỏ sung những loại dầu cá Omega-3 khi sử dụng thường xuyên.

Cá là loại thực phẩm mà cả người lớn lẫn trẻ em, thậm chí phụ nữ có thai, nên ăn. Các nhà dinh dưỡng học cho rằng tránh ăn cá là một sai lầm lớn. Theo ý kiến chuyên gia khoa học, vì những tác dụng rất có lợi của mỡ cá đối với não mà ta nên ăn cá ít nhất 2 lần/tuần.
dầu cá biển
Cá hồi chứa nhiều axit béo omega-3
Phụ nữ có thai, nếu muốn loại bỏ hoàn toàn nguy cơ độc tố xâm nhập vào cơ thể, có thể lựa chọn các loại cá béo nhưng kích thước nhỏ hoặc cá ít mỡ như cá thu hay cá bơn. Những con cá ít mỡ thường chứa một lượng nhỏ các chất axit đặc biệt có lợi cho sức khỏe hơn như omega-3, nhưng chúng lại giàu nguồn đạm và nói chung trong cơ thể chúng các độc tố không tích tụ lại được.

Các loại cá biển là món ăn cần phải được đưa vào thực đơn của trẻ em ngay từ những năm đầu đời của chúng. Các chuyên gia thuộc Viện thú y quốc gia của Ba Lan khuyên phải thận trọng trong trường hợp trẻ em từ khi sinh ra đến 5 – 7 tuổi và phụ nữ có thai. Đặc biệt là loại cá hồi và cá ngừ không nên ăn quá 1 lần/tuần vì lý do nguy cơ bị nhiễm thủy ngân hoặc các độc tố khác. Khi đó, cách bổ sung sự thiếu hụt các axit omega-3 trong dinh dưỡng có thể là các chất thay thế có giá trị EPA và DHA được kiểm soát.

Trẻ em ngoài 7 tuổi cần phải ăn cá ít nhất 2 lần trong tuần và ăn chủ yếu là cá mòi, cá vằn, cá halibut, cá thu và cá sác đin (cá mồi).
cá mòi nhiều axit béo omega3
Cá mòi

Khẩu phần hàng ngày của con người cần phải có ít nhất từ 0,5 đến 1,5 gam các loại axit béo omega – 3. Một lượng như thế chỉ có thể được bảo đảm nhờ vào việc ăn các loại cá biển béo từ 2 – 4 lần trong tuần. Nếu không có điều làm như vậy thì cần phải thường xuyên dùng viên dầu cá hay thực phẩm chức năng bổ sung omega – 3 tương đương.

Các thực phẩm chức năng bổ sung omega – 3

Không quan trọng việc các axit omega - 3 có nguồn gốc từ gan cá thu hay từ sụn, vây hay đuôi cá mập. Việc khuyến khích dùng các chế phẩm từ cá mập chỉ là chiêu trò của marketing mà thôi. Quan trọng là giá trị các axit omega – 3. Cũng chẳng có ý nghĩa gì chuyện dầu cá thuộc dạng viên hay dạng nước - ở cả hai dạng độ hấp thu của các axit đều giống nhau. Norwegian National Nutririon Council khuyến khích nên dùng dầu cá thu hàng ngày đối với trẻ em từ 4 tuần tuổi trở đi.
Các loại axit omega – 3 không thể tìm thấy trong táo, xúp lơ hay dầu hướng dương, dầu đậu nành, dầu ngô hay dầu lanh. Nguồn chủ yếu của nó là cá biển (cá mòi, cá vằn, cá hồi, cá thu, cá halibut, cá bơn) cũng như từ các loại vỏ cứng và từ sữa mẹ.
thuốc viên dầu cá
Viên dầu cá bổ sung omega -3 

Dầu cá vẫn là thứ không được ưa dùng. Trước đây nó được dùng cho trẻ uống, nhưng chỉ để phòng chống còi xương – do có giá trị cao về vitamin D. Trong khi đó dầu cá chứ không phải các vitamin, chứa chủ yếu các axit béo omega-3. Nó cần được sử dụng ở bất cứ lứa tuổi nào, và đặc biệt là dùng cho phụ nữ có mang.
Các công trình nghiên cứu của ALSPAC, so các nhà khoa học Bristol University ở Anh tiến hành, đã chỉ ra rằng những đứa trẻ leen ba, nếu tỏng lúc mang thai, mẹ chúng ít ăn cá, chúng sẽ gặp khó khăn trong giao tiếp với bạn bè cùng lứa. Những đứa trẻ đó khi ở tuổi cắp sách đến trường thường học kém và các động tác cũng kém thuần thục hơn bạn bè.

Axit béo omega-3 ảnh hưởng đến sức khỏe con người thế nào?

Các nhà dịch tễ học đã lưu ý điều này từ những năm 70 của thế kỷ trước, khi nghiên cứu cái gọi là sự ngược đời của những người Eskimo ở Grenlandia, cư dân rất ít bị bệnh tim. Thì ra hàng ngày họ ăn đến 400g cá, thịt hải cẩu và cá voi. Những cư dân Okinawa của Nhật mỗi ngày ăn 250g cá cũng ít khi bị nhồm máu cơ tim.
Các axit omega-3 chứa trong cá có tác dụng giống hệt các loại thuốc. Giống như aspirin, chúng làm giảm thiểu độ đông của máu, giống như các chế phẩm có lợi cho tim, chúng làm giảm thiểu nguy cơ rối loạn nhịp tim và giống như statin, chúng làm tăng cholesteron có ích và đồng thời loại bỏ cholesteron xấu và giảm các glicerid ba thành phần.
Viên dầu cá cho tim mạch khỏe mạnh hơn

Axit omega 3 tăng cường sức đề kháng của cơ thể và bảo vệ khỏi bệnh trì trệ, bệnh Alzheimer cũng như khỏi bị tiểu đường và dị ứng. Chúng có tác dụng giảm nhẹ các chứng bệnh về khớp, hạ huyết áp và sự năng động quá mức ở trẻ em. Dầu cá hay omega -3 cũng có thể bảo vệ khỏi mắc một số căn bệnh ung thư như ung thư vú, tuyến tiền liệt và ruột già.

Như các công trình nghiên cứu do các chuyên gia thuộc Università delgi Studi di Padova tiến hành với những người Tanzania, ăn cá có tác dụng bảo vệ khỏi bị các bệnh mạch vành và nhồi máu cơ tim hiệu quả hơn nhiều so với kiêng thịt.
Các axit béo omega-3 giảm thiểu nguy cơ mắc các chứng bệnh dị ứng và hen suyễn, thậm chí còn làm căng da và mất các nếp nhăn. Bởi vì chúng rất cần thiết cho sự phát triển chuẩn mực ở trẻ (nguồn giàu có axit béo omega-3 là sữa mẹ) nên tất cả các loại dinh dưỡng cho trẻ phải chứa chúng.
Các công trình nghiên cứu lâm sàng kéo dài hơn một chục năm đã chỉ ra rằng các axit béo omega-3 có trong các loại cá giúp cho việc điều trị các căn bệnh về tâm lý, trong đó có bệnh tâm thần phân liệt và bệnh năng động quá mức cộng với rối loạn tập trung chú ý ở trẻ (gọi là nhóm bệnh ADHD)

Những lưu ý về axit béo omega-3

Các axit béo omega-3 quan trọng nhất gồm axit alpha-linolen (ALA), axit aicozapentaen (EPA) và axit decozahexen (DHA). Chúng là những thành phàn của thực vật biển, của hạt dẻ và các loại dầu thực vật. Nhưng chúng cũng xuất hiện với số lượng lớn các loại cá biển.
Giá trị béo trong thịt của cá được làm giàu bằng các axit béo omega-3 phụ thuộc cả vào loại cá lẫn mùa đánh bắt trong năm. Các loại cá trắng, chẳng hạn như loại cá mình dẹt, hai mắt ở cùng một bên, cá bơn, tôm, tôm hùm, ngao và mực có khoảng 5% chát béo. Các loại cá béo như cá hồi, cá vằn, cá mòi và cá thu có từ 5 -25^ chất béo. Cá mòi đánh bắt vào mùa hè có 25g chất béo trên 100g thịt, nhưng nếu đánh bắt vào mùa đông – chỉ còn 14g. Cá vằn đánh vào mùa xuân có 5,4g chất béo nhưng vào mùa thu thì cao gấp 5 lần.
dầu cá
Salad cá ngừ đóng hộp


Loại cá ngừ rất giàu omega-3 đóng hộp là dạng làm giảm giá trị của nó. Cho nên, nếu lựa chọn cá đóng hộp để bổ sung omega-3 thì một lựa chọn khác khôn ngoan hơn là cá mòi đóng hộp, vì giá thành thấp hơn cá ngừ nhưng mang hàm lượng omega-3 tương đương và không bị nhiễm độc. 

Thứ Hai, 20 tháng 2, 2017

Có nên bổ sung vitamin cho bệnh nhân ung thư không ?

Hiện nay, có rất nhiều người băn khoăn ràng,khi cơ thể bị những căn bênh ung thư, thì có nên bổ sung những chất dinh dưỡng, vitamin cho cơ thể hay không vì sợ rằng việc bổ sung những dưỡng chất này sẽ gián tiếp tạo điệu kiện cho ung thư có cơ hội phát triển nhanh chóng. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn trả lời những thắc mắc này của bạn

Năm 1922, khi Herbert Mclean Evans thuộc Đại học California tìm ra vitamin E, ông coi nó là “nhân tố X” rất cần thiết cho sự sinh sôi nảy nở của loài bò sát. Hơn một chục năm sau, các bác sĩ Canada là Wilfrid và Evan Shute đã đi đến kết luận rằng loại hợp chất này, nếu dùng với liều lượng cao, có thể là vitamin mang lại tuổi trẻ, giúp bảo vệ khỏi xơ vữa và nhồi máu cơ tim.

Người ta còn đưa ra giả thiết rằng trong số các chất chống oxi hóa mạnh nhất, ngoài vitamin E ra, còn có cả vitamin C và beta-caroten. Những chất này chống lại các gốc tự do, các phân tử oxy chứa electron không bốc hơi, những thứ này sẽ là sản phẩm phụ của sự biến đổi chất được thừa nhận là có hại cho các tế bào một khi chúng dễ dàng tham gia vào những phản ứng hóa học khác nhau.
thực phẩm giàu vitamin E
Các thực phẩm giàu vitamin E tự nhiên

Vấn đề là các công trình nghiên cứu lâm sàng không khẳng định điều vừa nêu mặc dù các công ty dược phẩm đã chi những khoản lớn dùng vào việc nghiên cứu này. Ông Rory Collins thuộc Đại học Oxford đã bỏ ra 5 năm ròng quan sát 20 ngàn người ở độ tuổi từ 40 đến 80 và ông đi đến kết luận rằng các loại vitamin C, vitamin E, và beta-caroten dạng viên thậm chí không có chút tác dụng dù nhỏ nào trong việc phòng ngừa bệnh nhồi máu cơ tim, tai biến mjch máu não và ung thư.

Các công trình nghiên cứu được công bố trên tờ Lancet còn đáng lo ngại hơn nữa. Việc phân tích sâu hơn các kết quả nghiên cứu trên 17 ngàn bệnh nhân do các nhà khoa học Secbi và Đan mạch tiến hành còn chỉ ra rằng các loại Vitamin, thay vì bảo vệ người ta khỏi bị bệnh ung thư dạ dày, ruột non, tụy và gan, như quan niệm đã tồn tại, cho đến cách đây không lâu, thậ chí có thể tạo điều kiện tốt cho chúng phát triển.
thực phẩm nhiều vitamin C
Các thực phẩm chứa nhiều Vitamin C

Nguy hiểm nhất là khi có sự kết hợp giữ beta-caroten và vitamin A, caroten và vitamin E, vì khi đó chúng làm tăng nguy cơ ung thư lên là 30 và 10%, tương ứng với hai loại kết hợp trên. Nhóm nghiên cứu của Johns Hopkins University cũng thu được các kết quả nghiên cứu tương tự vậy. Tổng kết lại, cả hai nhóm kết quả cho thấy là ngay cả việc sử dụng với liều lượng quy định chung của quốc tế - 400 đơn vị mỗi ngày, tương đương với một viên – cũng có hại cho sức khỏe. Sử dụng liều lượng này cũng làm tăng nguy cơ tử vong sớm lên 10%. Nếu sử dụng quá liều, sự nguy hiểm còn cao hơn nữa.
Trước đó mọi người thường có cảm tưởng rằng các chất bào chế, thực phẩm chức năng chứa vitamin chỉ góp phần phát triển bệnh ung thư ở những người hút thuốc lá. Các công trình nghiên cứu ở Mỹ và ở Phần Lan đã chỉ ra rằng những người hút thuốc tuổi ngoài 50 và những người đã một lần nhồi máu cơ tim thì cả các chất bào chế chỉ chứa beta-caroten cũng như các chất bào chế chứa hỗn hợp beta-caroten với vitamin E đều không có tác dụng gì. Sau một thời gian điều trị theo phương pháp sử dụng vitamin, ở một số người thậm chí nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi còn tăng mặc dù lượng vitamin trong máu tăng gấp ba lần.
thực phẩm chứa nhiều vitamin B
Thực phẩm cung cấp vitamin B6
Tất cả mọi nghi ngờ đã được giải tỏa nhờ các công trình nghiên cứu trên 200 ngàn người của các chuyên gia thuộc Kobenhavus Universitet và kết quả thu được đã công bố vào năm 2007. Thì ra các chất bào chế chứa chất chống oxi hóa thay vì bảo vệ cơ thể khỏi bị ung thư và nhồi máu cơ tim, đã làm tăng nguy cơ tử vong lên 5%. Ở đay, chuyện các chất bào chế gồm một hay nhiều thành phần không có ý nghĩa gì
Các bệnh nhân ung thư không nên dùng các chất bào chế, thực phẩm chức năng chứa vitamin, đặc biệt là dùng liều cao. Phương pháp điều trị này sẽ không giúp ích gì cho họ, mà ngược lại – có thể còn thúc đẩy bệnh phát triển nhanh hơn. Các nghiên cứu của tiến sĩ Michael Leitzmann thuộc Viện Ung thư Quốc gia đã chỉ ra rằng uống các chất bào chế chứa vitamin trong thời gian dài, với liều lượng vượt quá liều lượng ghi trên bao bì, sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư tiền liệt tuyến với mức độ ác tính cao. Nguy cơ phát triển di căn bệnh ung thư phổi khi đó cũng tăng 1/3, còn mức độ gây tử vong thì tăng gấp 2 lần.
thuốc vitamin
Lạm dụng thuốc bổ sung vitamin có thể gây hậu quả xấu cho sức khỏe
Những người bị ung thư cần tránh sử dụng vitamin với liều lượng lớn trong thời gian áp dụng hóa trị liệu và xạ trị liệu. Tiến sĩ  David Golde thuộc Memorial Sloan – Kettering Cancer Centrer ở New York đã khẳng định rằng dùng quá liều loại vitamin này, chẳng hạn như đến 1g, sẽ giảm hiệu quả của các phương pháp chữa trị.

Vitamin C là chất chống oxi hóa, khi thấm vào các tế bào ung thư, một phần của nó sẽ bảo vệ cho các tế bào này chống lại các quá trình cung cấp oxi thông qua hóa trị liệu hay xạ trị liệu. Các chuyên gia thuộc University of Southern California cũng cảnh báo rằng sử dụng quá liều vitamin C cũng có thể thúc đẩy phát triển bệnh xơ vữa động mạch, đe dọa nhồi máu cơ tim hoặc tai biến mạch máu não.
Sử dụng quá liều tất cả các loại vitamin đều có hại. Vitamin A gây ra sự nhạy cảm quá mức, gây ra cắn bệnh tổn thương xương và làm tim to ra. Vitamin B6 có thể làm tổn hại hệ thần kinh và gây ra các triệu chứn glieen quan đến bệnh xơ cứng rải rác. Vitamin C gây rối loạn hoạt động của hệ tiêu hóa và có thể dẫn đến sỏi thận, còn vitamin PP có thể gây ra các bệnh như ỉa chảy và rối loạn hoạt động của tim.
(theo Tri thức Trẻ)


Thứ Hai, 13 tháng 2, 2017

Những điều bí ẩn vệ hệ miễn dịch của chúng ta

Bạn có bao giờ thắc mắc rằng, tại sao có những người từ nhỏ đến lớn rất ít khi bị bệnh, đặc biệt là những bệnh thường gặp như cảm cúm.... nhưng lại có những người bệnh thường xuyên, vài ngày là lại cảm cúm, sổ mũi hắt hơi. Dưới đây là những bí ẩn của hệ miễn dịch mà nhiều người chưa biết

Trời chớm lạnh – người này cảm cúm liên tục, người khác thậm chí không bao giờ sổ mũi, nhức đầu. Tại sao?
Với câu hỏi mới nghe có vẻ đơn giản thế, song khoa học không có câu trả lời ngắn gọn. Người ta đổ lỗi nhiều nhát vào điều kiện thời tiết xấu (bởi cảm cúm vẫn bị nhiều nhất vào những tháng mùa đông), song liệu chúng ta có phải là thủ phạm chính?
Chuyên gia bệnh học người Mỹ, GS Jack Gwaltney (Đại học Virginia) khẳng định, nếu con người bắt đầu thực hành lối sống cách ly với cộng đồng, chắc chắn tình trạng cảm cúm sẽ giảm hẳn. Và theo nhà khoa học này, việc thường xuyên tiếp xúc với đám đông, nhất là trẻ em chính là cách dễ nhiễm virus nhất: “Nếu con cháu bạn trở về từ trường tiểu học hoặc lớp học mẫu giáo bị sổ mũi trong khi bạn không miễn dịch với những virus đó, 40% khả năng bạn sẽ mắc bệnh”.

Chúng ta chắt lọc khả năng đề kháng từ sữa mẹ, bởi trong thức ăn tự nhiên, con người tiếp nhận vốn sức khỏe lớn nhất cho phần còn lại của cuộc đời: Những kháng nguyên sẽ bảo vệ chúng ta trước các bệnh lây nhiễm và cho phép chúng ta thoát khỏi không ít tai họa nghiêm trọng đối với sức khỏe. 

Lính tuần tra trong máu

Thức ăn tự nhiên không chỉ đóng vai trò củng cố hệ đề kháng vẫn chưa được hình thành đầy đủ của đứa trẻ, mà còn tác động đến quá trình phát triển bình thường của trẻ - chuyên gia miễn dịch học, GS Kazimierz Madalinski giải thích. 
Trước khi trẻ sơ sinh ra đời, ngay qua nhau thai, trẻ đã được nhận dự trữ kháng nguyên (còn gọi là globulin miễn dịch) thuộc nhóm IgG. Suốt cả cuộc đời còn lại, những kháng nguyên này và những tế bào bổ trợ xuất hiện về sau sẽ hỗ trợ đội qun bạch cầu – những nhân tố đóng vai trò quan trọng nhất của hệ miễn dịch trong nỗ lực tiêu diệt vi trùng và virus thâm nhập cơ thể. 
Trong những ngày đầu tiên sau chào đời, trẻ được dòng sữa mẹ cung cấp những thành phàn tiếp theo tạo nên lá chắn bảo vệ bên trong cơ thể: Các vi khuẩn có ích, tế bào hạt bạch cầu (trong tủy xương), các tế bào bạch huyết lympho – những lực lượng cảnh sát đặc nhiệm sẽ phải hợp đồng tác chiến nghiêm túc với nhau suốt nhiều chục năm tiếp theo, để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ thân chủ trước mọi đòn đánh của đủ loại vi trùng, virus gây bệnh. 

Thật phi lý, nhưng miễn dịch học – theo GS Madalinski – lĩnh vực chuyên nghiên cứu các cơ chế đề kháng, trong tài khoản của mình lại có nhiều công trạng trong việc triển khai các phương pháp kìm hãm phản ứng đề kháng hơn so với việc thực hành phản ứng này. Thiếu tiến bộ dạng này, sẽ không thể có những thành công ấn tượng của y học như công nghệ cấy ghép các cơ quan nội tạng cơ thể - đối tượng vốn là mục tiêu xa lạ nhất thiết phải bị tiêu diệt của lực lượng “cảnh sát đặc nhiệm” bên trong cơ thể. Kể từ thời điểm biết cách khống chế hoạt động của hệ miễn dịch, kết quả cấy ghép các cơ quan nội tạng cải thiện trông thấy.

Đội “lính tuần tra” lưu hành bên trong dòng máu buộc phải biết cách phân biệt kẻ phá hoại và tế bào của chính “quân mình”, để tránh xảy ra tình trạng tự hủy diệt (tiếc rằng thực tế thỉnh thoảng vẫn diễn ra trong cái gọi là các bệnh tự miễn dịch, thí dụ các bệnh viêm khớp hoặc bệnh tuyến giáp trạng – khi bản thân hệ đề kháng của người bệnh tiêu diệt tế bào khỏe mạnh). Thêm nữa, đó là hội chứng nhầm lẫn duy nhất giữa các tế bào ngoài hệ thần kinh, có năng lực học và ghi nhớ. 
Thiếu năng lực tự học và nhớ, hệ miễn dịch của chúng ta không thể tự xoay sở với đòn đánh cảu các bệnh lây nhiễm, vốn thường xuyên tìm cách thâm nhập vào cơ thể. Nhờ có năng lực đó, việc bảo về đơn giản hơn, bởi lẽ khi đó hệ miễn dịch đã được chuẩn bị để đảy lùi kẻ thù đã quen mặt. Hệ miễn dịch học được ăng lực này nhờ nhiều giải pháp, trong đó có tiêm chủng – các loại vacxin giúp hệ miễn dịch của cơ thể chúng ta nhận biết kẻ thù. 
Như GS Michale Oldstone đã nhận xét trong cuốn sách: “Các loại virus, dịch bệnh và lịch sử nhân loại”: “Hệ miễn dịch bảo vệ chúng ta trước các bệnh lây nhiễm thông qua việc ngăn cản khả năng nhiễm bệnh. Đó là sự đơn giản hóa sai lầm, một khi hệ miễn dịch cơ thể cũng có thể bị nhiễm bệnh, song bệnh nhiễm trùng nhứ thế tiến triển nhẹ hơn và không là mối đe dọa”.

Các chuyên gia miễn dịch học đã phát hiện ra quy luật thú vị: Những vacxin đơn lẻ bảo vệ cơ thể trước những bệnh cụ thể, nhưng đồng thời cũng phát huy vai trò củn cố toàn bộ hệ miễn dịch của chúng ta – Những vacxin đó không làm giảm thiểu khả năng đề kháng của cơ thể, cũng không gây ra những tác dujngphuj không mong muốn như tuyên bố sai lầm của những người chủ trương chống tiêm chủng – GS Madalinkski nhấn mạnh. Vì thế, việc cho trẻ tiêm chủng theo đúng chỉ định đóng vai trò đặc biệt quan trọng. 

Lính trinh sát, công binh và gián điệp trong cơ thể
Liệu điều đó có nghĩa, năng lực miễn dịch của chúng ta được quyết định duy nhất bởi cha mẹ và phụ thuộc vào thực tế họ có trang bị bộ gien di truyền thế nào cũng như sự lo xa đến vốn sức khỏe cần thiết cho chúng ta đến đâu? 
Có khá nhiều khía cạnh chính xác trong cách nghĩ như thế, bởi cho đến nay các nhà miễn dịch học vẫn chư thể soạn thảo “đơn thuốc” khả dĩ giúp con người sở hữu hệ miễn dịch thực sự hoàn chỉnh. 

Mặt khác, riêng số lượng tế bào bảo vệ và những kháng thể hỗ trợ chúng không đóng vai trò quyết định sức mạnh của hệ miễn dịch, mà cả khả năng sẵn sàng hành động của chúng – Sự đề kháng, miễn dịch? Đó là cách nói ngắn gọn – GS BS Bozena Cukrowska, giám đốc Trung tâm Sức khỏe Trẻ em Ba Lan nhấn mạnh. 
Trong thực tế, đó là những cơ chế phân biệt “quân địch” và “quân ta”. Tuy nhiên, chỉ những cơ quan cụ thể và tế bào tham gia vào những cơ chế này. 
Thứ nhất, những bộ phận xuất hiện và trưởng thành đội quân vệ sĩ và nơi tập trung quân – trường hợp xuất hiện bệnh lây nhiễm như tủy xương và amidan. 
Thứ hai, hệ thống mạch máu và bạch huyết là đường vận chuyển của chúng. 
Cuối cùng, đội quân tế bào bạch huyết, bạch cầu hạt, các vi khuẩn có ích và các tế bào hình cây, mà một bộ phận chuyên sản xuất kháng thể haowjc các hợp chất đặc biệt nhằm tiêu diệt các tế bào đã bị nhiễm virus và vi trùng. 

Như vậy, trong thành phần cấu thành các lực lượng bảo vệ cơ thể tự nhiên không chỉ có toàn chiến sĩ ngoài mặt trận làm nhiệm vụ tiêu diệt bệnh lây nhiễm thâm nhập vào cơ thể. Bênh cạnh binh đoàn “thi hành án”, đội ngũ chiến binh đa dạng và thông minh hơn là lực lượng trinh sát, lính công binh và lực lượng gián điệp được huấn luyện tinh nhuệ. 
Vì thế, bạch cầu (tế bào bạch huyết là một trong những đơn vị thuộc đội quân tế bào rất đa dạng này) không chỉ loại bỏ vi trùng, mà còn thu nhận các tín hiệu phát ra từ các tế bào – “quân ta”, nhờ thế chúng có thể phân biệt được tế bào nhiễm bệnh và tế bào khỏe mạnh. 
Sẽ thu được lợi ích lớn, một khi chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của hệ miễn dịch. Tuy nhiên các hướng dẫn của giới khoa học về lĩnh vực này vẫn chưa có gì cụ thể và nếu muốn thực hiện, chỉ cần thực hành nếp sống lành mạnh. 

Điều đó có nghĩa: Không làm việc quá sức, không thức quá khuya và ngủ đủ, luyện tập thể lực vừa phải (nỗ lực thái quá không cải thiện khr năng miễn dịch, trái lại – còn làm suy giảm), rèn luyện thường xuyên, ngoài ra – nên ăn sữa chua, tỏi tươi nhằm kích thích hiệu quả hệ miễn dịch. Bên cạnh đó, những chất không thể thiếu nữa là các thực phảm giàu các nguyên tố vi khoáng như sắt, magie, kẽm, canxi, selen.

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

Những nguy hiểm khi bổ sung Vitamin C bằng thuốc

Vitamin C là một trong những vitamin rất tốt và cần thiết cho sự phát triẻn của cơ thể. Bạn có thể bổ sung Vitamin C thông qua những loại trái cây như cam, quýt, xoài.....đây là những thực phẩm giúp bạn bổ sung vitamin C rất tốt, tuy nhiên, nhiều người vẫn muốn sử dụng những việc vitamin C tổng hợp trên thị trường để bổ sung vitamin nhanh chóng cho cơ thể, vậy điều này có tốt không, chúng ta hãy cùng tìm hiểu nhé

Vitamin C không còn lạ lẫm với nhiều người hiện đại. Người ta có thể bổ sung vitamin C bằng nhiều cách khác nhau, có thể uống nước ép các loại trái cây giàu nguồn Vitamin C, có thể uống viên Vitamin C sủi bọt hoặc các loại thực phẩm chức năng khác. Nhưng liệu một con người trưởng thành, khỏe mạnh bình thường có thực sự cần bổ sung Vitamin C hàng ngày không? Bao nhiêu lượng là phù hợp và sử dụng như thế nào là đúng khoa học? 
Bài viết này sẽ cung cấp cho người đọc những thông tin tham khảo về Vitamin C để có sự lựa chọn đúng đắn hơn. 
Nước cam chứa nhiều Vitamin C tự nhiên, dễ hấp thu.

Tác dụng phụ của Vitamin C

Theo các số liệu đã được đưa ra trong bản báo cáo của National Institutes of Health (NIH), sử dụng những suất vitamin phụ thêm chỉ thúc đẩy việc chống viêm nhiễm ở những người trước đó đã sử dụng nó với liều lượng thấp. Cách điều trị này chỉ có thể có tác dụng ở những người bị bệnh tiểu đường và những người già có khả năng hấp thụ vitamin chậm và bình thường khả năng đề kháng đã giảm sút. Với những người khỏe mạnh bình thường thì cả vitamin C lẫn Rutinoscorbin chứa axit ascorbin đều không có tác dụng gì. Không có bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ kết hợp ruta với vitamin C có tác dụng rút ngắn quá trình điều trị bệnh cảm. Cách điều trị bằng các loại thuốc thông dụng chứa kẽm hoặc canxi với vitamin C liều cao cũng ít mang hiệu quả, ngược lại chúng chỉ duy nhất gây ra bệnh táo bón.
Sức đề kháng của cơ thể không tăng do sử dụng vitamin C liều cực cao – 3g, tức là gấp 50 lần liều lượng các bác sĩ vẫn khuyến khích dùng đối với người trưởng thành (60mg mỗi ngày). Ở những người thiếu vitamin C, người ta quan sát được hiện tượng sức đề kháng giảm (chẳng hạn ở những người hút thuốc). Nhưng không có các công trình nghiên cứu cho kết quả đủ sức thuyết phục rằng dùng vitamin C với liều cực lớn (1 – 3 g mỗi ngày) có thể bảo vệ khỏi cúm và cảm hoặc ít nhất là giúp rút ngắn quá trình điều trị bệnh. Sử dụng vitamin với liều lượng lượng như vậy không những không cần thiết mà còn có hại. Cách điều trị này, thường là vào mùa thu và mùa đông, không làm cho bệnh thuyên giảm. Ngược lại nó làm thay đổi tác dụng của các loại thuốc khác và có thể gây ra những hậu quả phụ nghiêm trọng, chủ yếu là gây bệnh sỏi ở hệ thống tiết niệu, còn sau khi áp dụng quá lâu cách điều trị đó – dẫn đến bệnh suy thận mãn tính. 
Uống thuốc Vitamin C có thực sự tốt cho sức khỏe?
Cơ quan Chuẩn dinh dưỡng của Anh (FSA) cảnh báo rằng liều lượng 1g vitamin một ngày sẽ gây ra bệnh ỉa chảy và đau bụng (đặc biệt khi nó kết hợp với 1,5g canxi và 17 mg chất sắt). Số lượng tồn đọng của axit muối oxalic canxi tích lại trong thận sau 3 ngày sử dụng 2g vitamin C một ngày đêm (ở những người có xu hướng bị sỏi, bệnh có thể xuất hiện ngay cả trong trường hợp liều dùng chỉ nhỏ bằng một nửa).

Nên uống Vitamin C thế nào là hợp lý?

Kiến thức về các loại vitamin, trong đó có vitamin C của chúng ta vẫn chưa đầy đủ. Chúng ta vẫn chưa biết sự khác nhau trong phản ứng của những chất khác nhau về liều lượng vitamin cần uống thêm chênh lệch nhau đến mức nào. Chúng ta cũng còn biết quá ít về những phản ứng tương tác giữa các thành phàn thức ăn ta ăn vào, điều có ý nghĩa quyết định trong các phương pháp điều trị. Cũng có thể đây là lý do dẫn đến những mâu thuẫn thường xuyên xảy ra giữa các kết quả nghiên cứu. 
Các nhà khoa học thuộc University of Leicester tại Anh đã quan sát được ở 30 người đã sử dụng một số lượng khá lớn vitamin C (500mg) sự gia tăng khả năng mắc các bệnh ung thư và bệnh viêm khớp. Cho đến nay có một dư luận vẫn chiếm ưu thế cho rằng việc sử dụng vitamin C với liều lượng lớn có tác dụng hoàn toàn ngược lại – bảo vệ khỏi ung thư và nhồi máu cơ tim.
Cẩn thận khi sử dụng thực phẩm chức năng bổ sung vitamin C

Giáo sư người Anh, Joseph Lunec, nghi ngờ rằng sử dụng vitamin C quá liều lượng sẽ gây rối loạn gien và dẫn đến hình thành các căn bệnh như ung thư, xơ vữa và viêm khớp đặc trưng. Theo ý kiến của nhà khoa học này, không cần phải sử dụng quá liều lượng đã được khuyến khích từ lâu, đó là mức 60mg mỗi ngày. Ông thừa nhận rằng loại vitamin này, nếu được sử dụng với liều lượng lớn, quả thật nó cho thấy tác dụng chống ung thư khá lớn, nhưng tác hại của nó có thể còn lớn hơn nhiều. 

Thứ Ba, 7 tháng 2, 2017

Những nguy hiểm khi sử dụng thuốc bổ sung Vitamin C quá liều

Vitamin C là một trong những loại Vitamin rất cần thiết cho cơ thể. Do đó nhiều người đã lạm dụng sử dụng những viên Vitamin C được tổng hợp thành những viên thuốc để bổ sung vitamin C cho cơ thể, Tuy nhiên, điều này là khá nguy hiểm, đặc biệt là với những người bổ sung vitamin C quá liều.

Năm 1932, người ta phát hiện ra chanh có chứa Vitamin C, loại vitamin mà trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước đã được coi là “thần dược cho tuổi xuân”. Người quảng bá nhiệt thành nhất cho nó, nhà hóa học người Mỹ đoạt giải Nobel, Linus Pauling, đã khuyến khích sử dụng liều cao loại vitamin này nhằm chống ung thư và nhồi máu cơ tim.
Những trái cây chứa nhiều Vitamin C
 Ông đã thuyết phục mọi người qua các cuốn sách của mình như “Vitamin C, the Common Cold and the Flu” và “Cancer and Vitamin C” rằng vitamin C bảo vệ khỏi các căn bệnh ung thư, cảm cúm và nhồi máu cơ tim. Nhưng các công trình nghiên cứu của National Institutes of Health (NIH) ở Mỹ lại chỉ ra rằng không có bất cứ bằng chứng đáng tin cậy nào cho thấy vitamin C có tác dụng phòng ngừa ngay chỉ một căn bệnh đơn giản là cảm.

Vitamin C (axit ascorbic) được các nhà nghiên cứu Thụy Sĩ, dưới sự dẫn dắt của ông Tadeusz Reichstein, tổng hợp được. Trước đó người ta gọi nó là thuốc chống thối thịt vì nó phòng ngừa được sự thối rữa, tức là căn bệnh hình thành do thiếu vitamin C. Căn bệnh này những người dân Bắc Âu đã biết từ lâu và họ chữa khỏi bằng hành củ. Vào thời Trung Cổ, bệnh thối thịt đã làm tan rã quân đội của các hiệp sĩ Thánh chiến, còn vào đầu thời hiện đại thì nó trở thành tai họa của lính hải quân. Mãi đến đầu thế kỷ XVIII, ông James Lind, bác sĩ đứng đầu Royal Naval Hospital mới phát hiện ra rằng bệnh thiếu vitamin C có thể chữa được nhờ nước cam vắt và nước chanh vắt. 
Vào năm 1932, các ông William A. Waugh và Charles Glan King, giáo sư của University of Pittsburgh đã tách vitamin C từ quả chanh và chỉ chưa đầy một năm sau công ty dược phẩm Thụy Sĩ Roche đã bắt đầu sản xuất hàng loạt. Từ thời điểm đó, sự thông dụng của Vitamin C đã gia tăng nhanh chóng và sản lượng hàng năm của nó tăng bình quân đến vài tấn. 
Công ty dược phẩm Roche đầu tiên sản xuất viên bổ sung Vitamin C
Mốt sử dụng các loại vitamin dạng viên đã xuất hiện trong thập kỷ 70 của thế kỷ trước khi ông Linus Pauling công bố cuốn sách “Vitamin C, the Common Cold and the Flu”. Nhà khoa học hàng ngày tự mình uống vitamin C trong tất cả các bữa ăn, đã tìm cách thuyết phục mọi người rằng những ai uống mỗi ngày 1 g hợp chất có giá trị dinh dưỡng cao này, bất kể ở lứa tuổi nào, hãn hữu lắm mới mắc các căn bệnh cảm cúm. Ngay trong năm 1996, giáo sư Harri Hemila thuộc Helsingin Yliopisto – một trường đại học ở Hensinki – đã công bố các kết quả nghiên cứu chứa đựng những gợi ý rằng uống 1 g vitamin C hàng ngày có thể giảm nhẹ cả triệu chứng lẫn thời gian kéo dài của bệnh cảm. Nhưng nhà bác học Phần Lan này, trái ngược với ông Pauling, đã nhanh chóng rút lui khỏi các quan điểm của mình. Kết quả các quan sát sau đó của ông cho thấy, vitamin C, giống như vitamin E và beta – caroten, không có bất cứ ảnh hưởng nào đến diễn biến bệnh cảm.
Hơn một chục công trình nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự. Chúng khẳng định một điều rằng việc ép buộc uống quá liều Vitamin, trong đó có vitamin C, là việc làm vô nghĩa, bởi vì khi dùng quá mức, cơ thể không thể hấp thụ hết và chúng không giúp cải thiện sự hành chức của hệ thống đề kháng. Các công trình nghiên cứu trên 400 người được công bố trên tờ Medical Journal of Australia, thậm chí đã chỉ rõ rằng ở những người sử dụng thuốc an thần, những triệu chứng bệnh cảm còn nhẹ hơn ở những người uống vitamin C. 
Nước cam chứa nhiều Vitamin C tự nhiên

Thiếu vitamin C có thể gây triệu chứng mệt mỏi, buồn ngủ, chán chường và đau các khớp. Sự có mặt trong thành phần của vitamin C axit ascorbin xuất hiện trong tất cả các tế bào của cơ thể. Loại axit này rất cần thiết để tạo ra colagen – bạch cầu, thành phần chính của tế bào liên kết. Nó cũng ảnh hưởng đến việc hình thành các tế bào đề kháng, giúp hấp thu chất sắt ở ruột và chống lại sự hình thành nitrozoamin. Nó cũng đẩy nhanh quá trình lành vết thương, vết bỏng và chảy máu lợi.